Kinh doanh đa cấp (
tiếng Anh:
Multi-
level
Marketing
Tiếp thị đa cấp) hoặc
Kinh doanh theo mạng (Network Marketing) hay
Bán hàng đa cấp (tên gọi thông dụng tại Việt Nam) là thuật ngữ chung dùng để chỉ một phương thức
tiếp thị
sản phẩm. Kinh doanh đa cấp đòi hỏi sự khôn khéo của người tham gia để
có thể liên tục lôi kéo nhiều người, đặc biệt là người thân vào mạng
lưới và chấp nhận bỏ tiền sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ, từ đó đem lại
lợi nhuận cho người kinh doanh đa cấp
[1]. Đây là hoạt động
kinh doanh/
bán hàng trực tiếp đến tay
người tiêu dùng, họ có thể trực tiếp đến mua hàng tại
công ty (hoặc qua một nhà phân phối duy nhất) mà không phải thông qua các
đại lý hay
cửa hàng bán lẻ. Nhờ vậy, hình thức này tiết kiệm rất nhiều chi phí từ tiền sân bãi, kho chứa, vận chuyển hàng hóa,
khuyến mại,
quảng cáo và các chương trình tiếp thị khác. Số tiền này thay vào đó, được dùng để trả thưởng cho
nhà phân phối
và nâng cấp, cải tiến sản phẩm (do đó chất lượng sản phẩm của các công
ty tiếp thị đa cấp thường cao và liên tục được nâng cấp). Đây là phương
thức
tiếp thị tận dụng chính thói quen của người tiêu dùng:
khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ tốt thường chia sẻ cho người thân, bạn bè và những người xung quanh. Nhà phân phối có vai trò như những đại lý. Họ dùng những kết quả sử dụng của bản thân và những người quen biết để thu hút
khách hàng. Qua việc làm đó họ đem về lượng khách hàng cho
công ty
và bản thân họ. Ngoài ra họ còn có thể tìm kiếm những đối tác khác để
có thể trở thành nhà phân phối cùng làm việc với mình, việc này được
quản lý bằng mã số. Khi đó, mã số của một nhà phân phối mới được kết nối
với mã số của người bảo trợ (tiếng Anh:
Sponsor) của anh ta. Tại Việt Nam, đã xuất hiện nhiều biến tướng của kinh doanh đa cấp, sẵn sàng lách luật để lừa đảo người tham gia
[2].
Trong "Nghị định về quản lí hoạt động bán hàng đa cấp" do Chính phủ Việt nam ban hành, tại Điều 2 đã định nghĩa: "
Bán hàng
đa cấp là một phương thức tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp thông qua
nhiều cấp khác nhau, trong đó người tham gia sẽ được hưởng tiền hoa
hồng, tiền thưởng và/hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả bán hàng hóa của mình và của người khác trong mạng lưới do người đó tổ chức ra và được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận".
Ở Việt Nam và nước ngoài đã có nhiều vụ lừa đảo liên quan đến kinh doanh đa cấp.
[3] Báo chí Việt Nam có nhiều bài viết nghi ngờ hoạt động của nhiều công ty kinh doanh đa cấp ở Việt Nam.
[4][5][6] Kinh doanh đa cấp đã và đang gây ra nhiều tranh cãi trong xã hội, và thường được quy kết với
hình tháp ảo.
Hình thành
Kinh doanh theo mạng gắn liền với tên tuổi của nhà
hóa học người
Mỹ Karl Renborg
(1887-1973). Ông là người đầu tiên đã ứng dụng ý tưởng tiếp thị mạng
lưới vào trong cuộc sống, tạo ra một hệ thống kinh tế, một ngành kinh
doanh được coi là có triển vọng nhất trong thế kỷ 21
[7].
Karl Renborg có 20 năm sống tại
Trung Quốc và làm việc tại nhiều công ty khác nhau. Giữa những năm 1920-1930, chính quyền rơi vào tay
Tưởng Giới Thạch, Karl bị chính quyền Tưởng bắt giam cùng với những người nước ngoài khác. Trong điều kiện sống rất thiếu thốn của
nhà tù, ông đã nhận thấy vai trò của
dinh dưỡng đối với
sức khỏe con người. Để khắc phục điều kiện sống thiếu dinh dưỡng, Renborg đã tìm ra phương pháp cạo
sắt từ những chiếc
đinh gỉ trộn thêm vào khẩu phần ăn và thỏa thuận với cai tù để xin các loại
rau cỏ
khác nhau. Ông và một số ít bạn tù làm theo phương pháp này nên có sức
đề kháng tốt hơn và sống sót được đến ngày trở về quê hương.
Năm
1927, Karl về Mỹ và bắt đầu chế biến các chất bổ sung dinh dưỡng khác nhau dựa trên
cỏ linh lăng là một loại cỏ có chứa rất nhiều
vitamin,
khoáng chất,
đạm và nhiều
vi chất
có ích khác. Ông đề nghị những người quen của ông thử nghiệm miễn phí
sản phẩm nhưng không ai dám dùng thử vì họ không muốn mình làm vật
thí nghiệm.
Sau nhiều cố gắng mà không đem lại được kết quả, ông hiểu ra rằng chẳng
ai chịu đánh giá tốt những thứ cho không, vì vậy ông đã đưa ra một ý
tưởng, mà sau này đã phát triển thành một ngành kinh doanh tiên tiến.
Ông Renborg đề nghị các bạn của ông giới thiệu chất bổ sung dinh
dưỡng này cho người quen của họ, nếu người quen của họ mua sản phẩm thì
ông hứa sẽ trả
hoa hồng.
Ông cũng quyết định trả hoa hồng cho các người quen của bạn mình nếu
giới thiệu sản phẩm tiếp theo quan hệ của họ. Kết quả thật bất ngờ:
thông tin về các chất bổ sung dinh dưỡng có lợi bắt đầu được truyền bá
rộng rãi (vì mỗi người bạn của ông lại có nhiều người bạn khác và bạn
của bạn của bạn là vô hạn).
Doanh thu bán hàng của công ty tăng vượt quá sức tưởng tượng, mọi người đề nghị gặp ông để tham khảo về thông tin sản phẩm mới này.
Năm
1934, ông sáng lập ra công ty
Vitamins California[7]
và nhờ phương pháp phân phối mới này, khi người tiêu dùng cũng trở
thành người phân phối sản phẩm, công ty của ông đã nhanh chóng đạt doanh
số 7 triệu USD mà không hề mất một đồng
quảng cáo
nào. Sự độc đáo ở chỗ nhờ tiết kiệm được chi phí quảng cáo và các khâu
trung gian (đại lý, bán lẻ, kho bãi…) nên những người tham gia vào hệ
thống của ông có thể nhận được thù lao cao hơn.
Phát triển
Cuối năm 1939 đầu 1940, Renborg đổi tên công ty thành
Nutrilite Products[7]
theo tên sản phẩm và vẫn giữ nguyên phương pháp tiêu thụ. Những cộng
tác viên của ông tự tìm người mới, chỉ cho người mới đầy đủ thông tin về
sản phẩm và dạy cho người mới phương pháp xây dựng mạng lưới bắt đầu từ
những người quen của mình. Công ty đảm bảo cho tất cả nhà phân phối độc
lập có đủ sản phẩm và nhận
hoa hồng
không chỉ lượng sản phẩm họ bán ra mà còn trả hoa hồng cho lượng sản
phẩm được bán ra bởi những người do họ trực tiếp tìm ra. Những người
tham gia mạng lưới của công ty nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình
của người bảo trợ. Phương pháp phân phối hàng của ông Renborg chính là
khởi điểm của ngành Kinh doanh theo mạng, ở đây ông chỉ mới áp dụng một
tầng, và trong nhiều tài liệu thì năm 1940 là năm khởi đầu của kinh
doanh đa cấp và Renborg được coi là ông tổ của ngành kinh doanh này.
Sau một thời gian làm việc có hiệu quả với công ty Nutrilite Products,
Rich De Vos và
Jay Van Andel
(2 cộng tác viên của công ty) nhận thấy sức mạnh to lớn của kinh doanh
theo mạng và đã sáng lập ra công ty riêng của mình mang tên
American Way Corporation, viết tắt là AMWAY và hiện nay
Amway đã trở thành một trong những công ty hàng đầu thế giới trong ngành kinh doanh đa cấp với chi nhánh trên 108
quốc gia tính đến năm 2012[7].
Ổn định và bùng nổ
Tuy nhiên vào đầu
thập niên 1970, việc bán hàng đa cấp lại chịu sức ép từ nhiều phía khác nhau. Năm
1975, trong
hội đồng liên bang Hoa Kỳ có những người phản đối kinh doanh đa cấp và quy kết nó với cái gọi là "
hình tháp ảo" - một hình thức kinh doanh bất hợp pháp. Đây là đòn đánh đầu tiên của
chính phủ
vào kinh doanh đa cấp, bắt đầu cuộc đấu tranh của các công ty bán hàng
đa cấp để khẳng định chân lý, tính đúng đắn của mình. Công ty Amway
trong bốn năm liền phải theo hầu tòa (từ năm 1975-1979). Sau cùng, cuối
năm 1979 toà án thương mại Liên Bang Hoa Kỳ công nhận phương pháp kinh
doanh của Amway không phải là "hình tháp ảo" và được chấp nhận về mặt
luật pháp. Từ đó Bộ luật đầu tiên về kinh doanh đa cấp đã ra đời tại Mỹ.
Từ năm 1940 đến 1979 chỉ có khoảng 30 công ty kinh doanh theo mạng ra
đời tại Mỹ, đây là giai đoạn được gọi tên là
làn sóng thứ nhất.
[7].
Từ 1979-1990 (
làn sóng thứ hai) là thời kì bùng nổ của kinh doanh theo mạng.
Từ năm 1990, nhờ sự tiến bộ vượt bậc của
công nghệ và
truyền thông, kinh doanh theo mạng mang
màu sắc mới, các nhà phân phối có thể đơn giản hoá công việc của mình nhờ vào
điện thoại,
internet... Ở giai đoạn này - mà theo các chuyên gia gọi là
làn sóng thứ ba - nhà phân phối giỏi không cần phải là một
nhà hùng biện và đi lại như
con thoi giữa các mạng lưới. Bất kỳ ai cũng có thể sử dụng thời gian nhàn rỗi của mình để tham gia công việc và làm việc ở bất cứ đâu.
Tại Việt Nam
Đầu
thế kỉ 21, kinh doanh đa cấp bắt đầu bước chân vào thị trường
Việt Nam.
Kinh doanh đa cấp có nhiều công ty lừa đảo núp bóng và một bộ phận
không nhỏ nhà phân phối sai trái đã làm cho dư luận bắt đầu lên tiếng
phản đối kinh doanh đa cấp.
Một số lý do khác là do động thái của chính quyền quá chậm so với sự
phát triển của ngành nghề và sự hạn chế về tầm nhìn, nhận thức của người
dân (một phần đã phá kịch liệt, một phần nhẹ dạ tin vào các công ty bất
chính).
Đến thời điểm cuối năm
2004, tại Việt Nam đã có khoảng 20 Công ty bán hàng đa cấp phân phối sản phẩm chủ yếu về ngành chăm sóc
sức khoẻ và
sắc đẹp. Để hoà nhập với xu hướng chung của
thế giới cũng như đáp ứng tình hình thực tế tại Việt Nam hành lang
pháp lý về kinh doanh theo mạng đã dần hình thành:
- Ngày 01-07-2005, luật Cạnh tranh có hiệu lực thi hành trong đó có những điều khoản quy định về bán hàng đa cấp
- Ngày 24-08-2005, Nghị định 110/2005/NĐ-CP của chính phủ
về Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp được ban hành phần nào đã tạo ra
một hành lang pháp lý để bảo vệ các công ty và nhà phân phối chân chính.
[cần dẫn nguồn] Tuy nhiên, nghị định vẫn còn nhiều kẽ hở khiến cho một số công ty lợi dụng.
- Ngày 08-11-2005, Bộ thương mại ban hành thông tư hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định 110/2005/NĐ-CP về quản lý bán hàng đa cấp.
Năm
2006,
2007
được xem là giai đoạn phục hồi của kinh doanh đa cấp tại Việt Nam, khi
mà hàng loạt các công ty tăng dần doanh số sau giai đoạn bị báo chí và
dư luận đánh tơi tả.
Đầu tháng 10, năm
2009,
Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam được thành lập
[8]. Hiệp hội được thành lập và bổ nhiệm bà
Trương Thị Nhi (
Tổng giám đốc công ty TNHH TM Lô Hội, nhà đại diện tại Việt Nam của tập đoàn
Forever Living Products Hoa Kỳ) là chủ tịch nhiệm kỳ 2009-2014
[9]
Năm
2011,
với nhiều lý do, kinh doanh đa cấp bùng nổ mạnh mẽ và tạo thành một làn
sóng tại Việt Nam, trở thành một trong những kênh phân phối sản phẩm
chính thức, bên cạnh các phương thức phân phối khác như: bán hàng qua
đại lý, bán hàng theo catalog, bán hàng qua truyền hình... Vào trung
tuần tháng 7 năm này,
sự cố Agel Việt Nam
đã như làm sống lại làn sóng công kích mạnh mẽ từ báo giới về ngành
nghề cũng như thực phẩm chức năng. Nguyên nhân là do tại Agel, nhiều
người đầu tư tiền tỷ mở hàng loạt mã số để nhanh chóng được lên vị trí,
mong kiếm được nhiều hoa hồng. Sau đó, ôm hàng về bán phá giá thị
trường.
Tính đến tháng 6/2011, theo báo cáo của Bộ Công Thương, nước Việt Nam đã có 63
doanh nghiệp
được cấp giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp. Trong đó, Hà Nội đi đầu
với 30 doanh nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh 29 doanh nghiệp còn lại thuộc
về các tỉnh Đồng Nai (2 doanh nghiệp), Bình Dương và Hải Dương.
Luật pháp
Kinh doanh đa cấp (KDĐC) được luật pháp nhiều nước công nhận và đã ban hành luật để quản lý hoạt động này. Ở
Việt Nam luật về bán hàng đa cấp được ban hành vào ngày 24 tháng 8 năm 2005.
Tại Việt Nam, Nhà nước và Luật Pháp cho phép về bán hàng đa cấp,
nhưng cấm bán hàng đa cấp bất chính. Theo điều 48 Luật Cạnh tranh, Cấm
doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ
việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp:
- Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng
hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng
lưới bán hàng đa cấp (một số công ty lách luật bằng cách yêu cầu người
tham gia ký vào đơn tự nguyện mua sản phẩm, tuy nhiên, dù là thế nào,
phải mua sản phẩm để được tham gia đều là bất hợp pháp).
- Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại;
- Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế
khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp;
- Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới
bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa
để dụ dỗ người khác tham gia.
Các mô hình trả thưởng
Trong quá trình hình thành và phát triển, với hàng chục ngàn công ty
kinh doanh theo mạng thì có rất nhiều cơ cấu trả thưởng khác nhau hoặc
có nhiều tên gọi khác nhau. Có những sơ đồ bậc nâng cao, với tiền
thù lao
tạm thời chưa có và một phần thưởng lớn phía sau hoặc sơ đồ bậc đầu
tiên cho phép bạn có lợi nhuận ban đầu cao mà nỗ lực nhỏ và tiềm năng
lâu dài cũng nhỏ
[10]. Tùy chính sách công ty, khi bạn không đạt được
hạn ngạch
hàng tháng, có thể bạn vẫn được duy trì cấp bậc trong vài tháng trước
khi giáng bạn xuống cấp thấp hơn hoặc cấp đầu tiên. Những
sơ đồ
khác giáng bạn xuống bậc ngay trong khi tháng mà bạn không hoàn thành
hạn ngạch của mình. Một vài sơ đồ không chỉ giáng bạn xuống bậc, mà còn
ném bạn xuống bậc đầu tiên (bất kể bạn đang ở thang bậc nào), kể cả việc
chấp dứt
hợp đồng phân phối
[11]. Trong các điều này thì chẳng có gì là phi pháp, vấn đề là bạn có muốn làm việc theo một sơ đồ nghiêm khắc?
Một điều nữa, nếu có bất kì
giới hạn
về người (chiều rộng hay chiều sâu) thì cũng là giới hạn về thu nhập
của bạn. Có những công ty cho phép lợi nhuận chỉ ở mức vài trăm triệu
một năm, nhưng cũng có công ty lợi nhuận đó là không giới hạn
[12].
Mô hình nhị phân - Mô hình ma trận
Mô hình nhị phân
Mô hình nhị phân cho phép mỗi nhà phân phối được và chỉ được tuyển mộ thêm hai nhà phân phối thuộc tầng 1 (
thế hệ thứ nhất)
và bắt buộc hai nhánh của mình phải luôn phát triển đồng đều (nếu không
thực hiện được điều này thì nhà phân phối sẽ không được chi trả hoa
hồng hoặc chỉ hưởng ở nhánh yếu hơn).
Một số tài liệu cho rằng mô hình nhị phân là một dạng của mô hình ma trận và là mô hình ma trận dạng đơn giản nhất
[13]
Mô hình ma trận
Tùy theo chính sách quy định, sơ đồ hạn chế độ lớn và số người trong
mức một của bạn. Ví dụ, sơ đồ 3x6 cho phép bạn tuyển vào 3 người ở mức
một và giới hạn mức 6 là mức chi trả hoa hồng cuối cùng.
Nếu giả sử bạn tham gia vào dạng mô hình này, và bạn đã bảo trợ đủ số
người tối đa vào thế hệ thứ nhất của mình. Nếu bây giờ có một người bạn
thân của bạn cũng muốn tham gia vào doanh nghiệp thì bạn sẽ phải làm
sao? Nếu vẫn muốn cho bạn mình tham gia, bạn phải đặt người đó vào những
vị trí thấp hơn ở những thế hệ dưới. Hơn nữa, tốc độ phát triển đội
nhóm của người tầng dưới sẽ luôn chậm hơn những người tuyến trên.
Chính vì những lý do trên mà mô hình ma trận (và nhị phân) bị quy kết
vào "hình tháp ảo" và bị cấm (hoặc kiểm tra hoạt động rất gắt gao)
[14] tại các nước trên thế giới.
Tính đơn giản
Mô hình ma trận cho phép tạo ra tính đơn giản trong công việc. Trong
sơ đồ ma trận, bạn chỉ phải chăm lo, chịu hoàn toàn trách nhiệm đào tạo
cho những người ở
thế hệ thứ nhất của bạn. Bạn cũng có thể ngồi ở
nhà để người đỡ đầu tuyển người cho mạng lưới của bạn. Sơ đồ ma trận
rất đơn giản để giải thích cho những người mới của bạn
[14].
Mô hình ma trận thích hợp để sử dụng phân phối các sản phẩm đặc thù
mà tính xoay vòng sản phẩm nhỏ hoặc không có, để tránh sự bão hòa của
thị trường.
Hiệu ứng con đỉa
Mô hình ma trận thu hút những người không muốn làm việc nhiều và/hoặc
thiếu kiến thức trong lĩnh vực kinh doanh theo mạng. Các kế hoạch ma
trận theo kiểu phân chia các khoản hoa hồng có khuynh hướng khá "xã
hội". Ban thưởng cho những nhà phân phối tích cực ít hơn các nhà phân
phối lười biếng. Các nhà phân phối xuất sắc nhận được sự đền đáp ít hơn
so với thời gian và sức lực mà mình bỏ ra, bởi vì phần lớn các khoản hoa
hồng bị người ta hút mất như những con
đỉa[15], mạng lưới của họ đầy rẫy những kẻ ranh mãnh và lười biếng.
Sự giới hạn
Mô hình ma trận hạn chế quy mô tổ chức của bạn. Chẳng hạn, trong ma
trận 3x4, bạn không bao giờ có thể có quá 120 người trong mạng lưới tầng
dưới. Phép tính được mô tả như sau: mỗi cấp dưới có 3 người và ta có 4
tầng, tối đa có 3^1 + 3^2 + 3^3 + 3^4 = 3 + 9 + 27 + 81 = 120 người tham
gia dưới quyền 1 người
Biến thể
Một số chính sách của mô hình ma trận cho phép tuyển vào số lượng
không hạn chế (để bù bắp sự thiếu hụt do có thành viên nghỉ việc hoặc
làm việc không hiệu quả), tuy nhiên, quá trình làm việc vẫn chỉ dựa trên
một số người nhất định, khi bạn có 3 người trong mạng lưới, bạn sẽ là
thành viên cấp một, khi giúp cho ba người này đạt cấp một, bạn sẽ đạt
cấp hai. Điều này làm cho tính thống nhất (đoàn kết) của đội nhóm bị hạn
chế
[13].
Hiện nay mô hình nhị phân đã có nhiều thay đổi để dần hoàn thiện (phát huy tính đơn giản và nâng cao quyền lợi nhà phân phối)
[cần dẫn nguồn]
như từ việc chỉ chi trả hoa hồng từ nhánh yếu thì còn được thưởng thêm
từ một phần của nhánh mạnh, cũng như việc được chi trả hoa hồng nhiều
hơn đối với những người được trực tiếp bảo trợ.
Mô hình bậc thang li khai
Bậc thang li khai là mô hình tiên tiến nhất hiện nay. Nó cho phép mỗi
nhà phân phối được tuyển tuyến dưới với số lượng tùy thích (cũng giống
như mô hình đều tầng). Ngoài hệ thống thế hệ, bậc thang li khai còn tạo
ra một hệ thống cấp bậc. Ở mỗi cấp bậc, nhà phân phối được hưởng hoa
hồng cá nhân khác nhau, là hoa hồng đội nhóm cũng khác nhau tùy vào cấp
bậc của nhà phân phối tuyến dưới. Vì thế, mô hình cho phép nhà phân phối
hưởng không giới hạn thế hệ mà vẫn bảo đảm được tính công bằng.
Đặc trưng của Bậc thang li khai là hệ thống được quản lí theo hệ
thống cấp bậc, tức là phần trăm hoa hồng sẽ được phân chia theo hệ thống
cấp bậc. Mỗi cấp bậc sẽ có mức hoa hồng riêng và hoa hồng khối lượng
(giá trị thặng dư) sẽ được tính dựa trên số dư từ % hoa hồng cao trừ đi
phần trăm hoa hồng thấp hơn.
Ví dụ,
Thành Tâm tham gia vào mạng lưới và hiện giờ anh đang ở cấp bậc, mà tại đó anh nhận được 12%, và trong đội nhóm của anh có
Kim Tài hiện đang hưởng mức 5%, như vậy,
Thành Tâm sẽ nhận được 7% giá trị hàng hóa do
Kim Tài tiêu thụ được, và cho dù
Kim Tài ở bất cứ tầng nào trong hệ thống
Thành Tâm vẫn nhận được giá trị 7% (miễn là giữa hai người không có người có cấp bậc cao hơn
Kim Tài). Như vậy, hệ thống sẽ luôn bảo đảm rằng nó tồn tại và công bằng.
Khi các nhà phân phối trong mạng lưới tầng dưới của bạn đạt đến trạng
thái vượt cấp nhất định thì họ sẽ "bứt ra" khỏi nhóm của bạn. Bạn sẽ
không còn nhận được các khoản hoa hồng trực tiếp từ các sản phẩm của họ
hay là mạng lưới của họ bán nữa. Tuy nhiên bạn vẫn sẽ tiếp tục nhận được
một khoản lợi tức
hoa hồng nhỏ từ khối lượng của nhóm các nhà
phân phối đã tách ra và từ mạng lưới của họ. Nên nhớ rằng, phần trăm hoa
hồng nhỏ nhưng từ một mạng lưới lớn.
Trong số các sơ đồ kinh doanh thì sơ đồ bậc thang bảo đảm khả năng
đạt được phúc lợi lớn nhất. Vấn đề ở chỗ là các đặc trưng thoát ly cho
phép bạn xây dựng tổ chức lớn hơn và lấy ra được các khoản hoa hồng từ
nhiều cấp hơn các sơ đồ kiểu khác.
Mô hình này cho phép bạn nhận được các khoản hoa hồng ở nhiều mức hơn
bất kì sơ đồ nào khác. Nếu như nhà phân phối có một tổ chức 6 mức của
mình thì điều đó có nghĩa là bạn sẽ nhận được các khoản hoa hồng từ số
hàng hóa bán được ở mức thứ 12 của bạn! mô hình này cho phép thu về các
khoản thu nhập từ mức thứ 20, độ sâu này trong các Mô hình khác không
thể đạt tới.
Bậc thang li khai đem đến một độ rộng không hạn chế. Bạn có thể bảo
trợ vào tầng 1 của mình bao nhiêu người tùy khả năng của bạn. Họ, đến
lượt mình cũng có thể bảo trợ như thế. Bạn có thể mở rộng mãi mãi khi
xây dựng mạng lưới tầng dưới rộng lớn của mình, có khi lên tới hàng chục
nghìn nhà phân phối.
Tính ổn định
Đa số các công ty ổn định đều sử dụng Mô hình này, và đó là các công ty đa quốc gia.
Leonard Clements thông báo rằng 86% công ty MLM tồn tại từ 7 năm trở lên đều sử dụng mô hình này
[17].
Quá tải tầng trên hay quá tải tầng dưới
Mặc dù có nhiều tính ưu việt trong cách thức chi trả hoa hồng, mô
hình bậc thang li khai vẫn có nhược điểm nếu doanh nghiệp tổ chức không
thể cân bằng tầng trên và tầng dưới
[18].
Cụ thể là, nếu chính sách không phù hợp, khi vừa vào sẽ có thu nhập rất
nhỏ (nhỏ đến mức nhà phân phối không thể đủ kinh phí để duy trì công
việc kinh doanh) hoặc nhà phân phối lâu năm sẽ không đạt được thu nhập
đúng với công sức của họ. Vì thế, dù biết mô hình bậc thang li khai vượt
trội so với các mô hình khác nhưng nhiều doanh nghiệp không đủ sức để
cân bằng, khi mà những nhà phân phối mới vẫn đủ thu nhập để duy trì hoạt
động kinh doanh đến khi họ thật sự đạt được sự tự do về thời gian và
tài chính.
Sản phẩm
Sản phẩm đánh giá sự tồn tại lâu dài của một công ty kinh doanh theo
mạng vì vậy sản phẩm trong kinh doanh đa cấp phải có chất lượng tốt (
do sản phẩm được lan truyền từ người này đến người khác, nên nếu chất lượng không tốt thì sẽ không có sức lan truyền),
cần thiết cho hầu hết người tiêu dùng và được sử dụng thường xuyên. Các
sản phẩm mang đáp ứng nhu cầu hầu hết của người tiêu dùng và sẽ được sử
dụng liên tục sau đó:
Ngoài ra, sản phẩm phải đảm bảo tính
độc quyền:
nghĩa là chỉ bán thông qua các nhà phân phối của công ty, không bán
rộng rãi trên thị trường; độc đáo: tức là trên thị trường không có sản
phẩm tương tự.
Hình tháp ảo
Bán hàng đa cấp (MLM) bất chính hay hình tháp ảo là một hiện tượng
biến tướng của phương thức kinh doanh đa cấp, trong đó, lợi nhuận không
thực sự được xuất phát từ giới thiệu sản phẩm mà từ việc tuyển dụng các
thành viên mới. Đối tượng làm việc của kinh doanh theo mạng là Sản phẩm,
còn đối tượng của hình tháp ảo là tiền, cho dù nó thường được quy đổi
thành sản phẩm, hay dịch vụ nhất định thì nó vẫn là hình tháp ảo khi số
lượng sản phẩm tiêu thụ được sẽ luôn tương xứng với số người tham gia
(đối với hình thức chân chính, số lượng sản phẩm bán tùy thuộc vào khả
năng nội tại của mỗi người). Khi đó, các công ty hình tháp ảo, sử dụng
thuật ngữ "đa cấp" ám chỉ việc những người khởi xướng và phát động hệ
thống (nằm ở đỉnh tam giác-kim tự tháp) lợi dụng và bóc lột những thành
viên bên dưới (đáy tam giác).
Tuy nhiên, việc phân biệt công ty minh bạch hay bất chính rất khó với
đa số người dân, nhất là những người chưa hiểu rõ về kinh doanh đa cấp.
Người ta thường hiểu kinh doanh đa cấp theo nhiều cách khác nhau và sai
lệch, số ít người hiểu Kinh doanh theo mạng và Bán hàng đa cấp là hai
hình thức khác nhau nhưng thực chất chúng chỉ là một.
Điều 5, Nghị định 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam quy định về
hàng hóa được kinh doanh theo phương thức bán hàng đa cấp như sau:
Theo vi.wikipedia.org